Thứ Năm, 3 tháng 4, 2014
Chuyện khó tin ở đại học tư - Kỳ 8 : Kẽ hở từ luật định
Trường ĐH hay doanh nghiệp? Luật Giáo dục ĐH đã quy định rõ mục tiêu của giáo dục ĐH khác với doanh nghiệp từ mấu chốt. Luật Giáo dục ĐH có hiệu lực từ tháng 1.2013 nhất quán một tinh thần: giáo dục ĐH là vì lợi. Của cộng đồng và xã hội. Luật Doanh nghiệp xác định chức năng của doanh nghiệp là kinh doanh và nhằm mục đích sinh lợi. Như vậy, trường ĐH khó có thể tổ chức theo mô hình doanh nghiệp mà vẫn bảo đảm mục tiêu của giáo dục ĐH. Thế nhưng các văn bản định hướng cho hoạt động của trường ĐH tư thục lại được xây dựng theo cơ chế của một doanh nghiệp cổ phần, ở đó người càng có nhiều tiền càng có ngôn ngữ quyết định. GS Trần Phương, Hiệu trưởng Trường ĐH quản lý và kinh doanh Hà Nội cho rằng: “Theo mô hình công ty thì ai bỏ vốn nhiều người ấy phải nắm quyền chi phối. Trường ĐH cần vốn thật, nhưng năng lực trí óc mới là quyết định. Một công ty có thể kết thúc hoạt động bất cứ lúc nào theo quyết định của các chủ sở hữu, một trường ĐH thì chẳng thể như vậy. Trường bỗng ngừng hoạt động có tức thị phá tung các cam kết xã hội với hàng vạn người, hậu quả rất phức tạp…”. Xét về đích, trường ĐH nhằm đào tạo con người, nghiên cứu khoa học; doanh nghiệp nhằm mục tiêu sinh lợi. Sự dị biệt then chốt và đã được luật hóa này không chỉ chi phối đến hoạt động đào tạo của trường ĐH mà còn đến những tài sản mà trường ĐH tích lũy và sở hữu. Có phải tất cả trường tư thục đều chuyển qua tư thục? Điều 48 luật Giáo dục năm 2005 vẫn công nhận sự tồn tại của 3 loại hình trường ĐH: công lập, tư thục và tư thục. Quyết định 122/2006 của Thủ tướng Chính phủ ghi rằng: “Cho phép các trường ĐH dân lập chuyển sang loại hình trường ĐH tư thục”. Như vậy cả luật Giáo dục và Quyết định của Chính phủ đều không có điều nào nép các trường ĐH tư thục phải chuyển hết thành dân lập. Nếu trường đủ điều kiện, có mong muốn, tự đánh giá việc chuyển là cần thiết và bảo đảm sự phát triển ổn định của trường thì “cho phép” chuyển. Trong hồ sơ chuyển, mục trước nhất là tờ trình của hội đồng quản trị về việc chuyển đổi loại hình, cho thấy việc chuyển đổi phải xuất phát từ ước vọng và điều kiện của từng trường. Thế nhưng, thực tế việc này lại diễn ra ào ạt với lý do “bức phải chuyển” khiến nhiều trường lâm vào tình trạng phứa, bát nháo mà Trường ĐH Hùng Vương là tiêu biểu. Có phải phát xuất từ việc cho rằng chỉ còn một số ít (19) trường ĐH tư thục, mà các trường này cũng đang đều phải chuyển đổi sang loại hình tư thục, nên luật Giáo dục ĐH có hiệu lực năm 2013 xác định chỉ có 2 loại hình cơ sở giáo dục ĐH: công lập và tư thục? ngày nay các trường đang kẹt giữa hai bộ luật lớn này, và các cơ quan quản lý kiên cố cũng đang kẹt trong những khó khăn càng ngày càng chồng chất khi hướng dẫn chuyển đổi loại hình. Tài sản chung được dùng vào mục đích gì? Đây là tài sản sau một số năm trường hoạt động đã lớn hơn nhiều so với tài sản ban sơ, thuộc sở hữu tập thể của trường. Bởi thế, tài sản này chỉ đích thực có giá trị khi được dùng để phục vụ trực tiếp cho đích đào tạo. Nếu tài sản này phải chuyển thành quỹ, đưa về hội đồng quản trị quản lý, mà hội đồng quản trị trường tư thục (theo cách hướng dẫn của các dự thảo thông tư 2013) lại gồm phần lớn là những nhà đầu tư, thì bản chất là đưa về phía những người có tiền quản lý. Như vậy là tước bỏ hẳn vai trò làm chủ của cán bộ, giảng viên, viên chức. Khi ấy, tài sản này có phục vụ đích đào tạo hay không là do quyết định của chỉ các nhà đầu tư mà thôi. Trong khi đó Quyết định 63/2011/QĐ-TTg năm 2011 về sửa đổi, bổ sung một số điều của Quy chế trường ĐH tư thục ban hành theo Quyết định 61/2009/QĐ-TTg đề cập đến chuyện xử lý khối tài sản chung này theo hướng trở thành vốn điều lệ của trường ĐH tư thục, được chia cổ tức hằng năm, có đại diện, đáp ứng được 2 đích: bảo toàn vốn và phát triển trường. Nhưng năm 2013 lại ra đời một dự thảo khác hoàn toàn với Quy định 63, gây hoang mang cho các trường. Viên Ninh
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét